Tăng trưởng kinh tế là gì? Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2024 ở Việt Nam sẽ là bao nhiêu? (Hình từ Internet)
Tốc độ tăng trưởng GDP năm 2024 ở Việt Nam sẽ là bao nhiêu?
Quốc hội ban hành Nghị quyết 103/2023/QH15 ngày 09/11/2023 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024.
Trong đó, Nghị quyết đã đặt ra các chỉ tiêu cần đạt được trong Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024 như sau:
- Tốc độ tăng trưởng GDP từ 6,0 - 6,5%;
- GDP bình quân đầu người đạt khoảng 4.700 - 4.730 đô la Mỹ (USD).
- Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt khoảng 24,1 - 24,2%.
- Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 4,0 - 4,5%.
- Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân 4,8 - 5,3%.
- Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội đạt 26,5%.
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo khoảng 69%, trong đó có bằng, chứng chỉ đạt khoảng 28 - 28,5%.
- Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%.
- Tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo đa chiều) giảm trên 1%.
- Số bác sĩ trên 10.000 dân đạt khoảng 13,5 bác sĩ.
- Số giường bệnh trên 10.000 dân đạt khoảng 32,5 giường bệnh.
- Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 94,1% dân số.
- Tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới đạt 80%.
- Tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn đạt 95%.
- Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường đạt 92%.
Được biết, Nghị quyết 103/2023/QH15 thể hiện mục tiêu tiếp tục ưu tiên tăng trưởng gắn với củng cố, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế.
Đẩy mạnh, tạo chuyển biến tích cực hơn trong thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và năng lực nội sinh của nền kinh tế.
Tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế, chính sách; khơi thông các nguồn lực; xử lý hiệu quả các vướng mắc để phát triển các loại thị trường ổn định, an toàn, lành mạnh, bền vững; nâng cao hiệu quả việc tổ chức thực hiện luật pháp, chính sách, thực thi công vụ.
Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án kết cấu hạ tầng chiến lược trọng điểm, quan trọng quốc gia.
Quan tâm phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế ngang tầm với phát triển kinh tế; chú trọng bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân. Chăm lo các đối tượng chính sách;...
Xem thêm tại Nghị quyết 103/2023/QH15 ban hành 09/11/2023.
Nền kinh tế Mỹ tăng trưởng nhanh hơn dự kiến trong quý II/2024 trong bối cảnh chi tiêu của người tiêu dùng và đầu tư kinh doanh tăng mạnh.
Tốc độ tăng trưởng gấp đôi quý I
Nền kinh tế tăng tốc trong khi áp lực lạm phát đã giảm xuống, khiến giới phân tích giữ nguyên kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cắt giảm lãi suất vào tháng 9 tới.
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) Mỹ trong quý II/2024 đã tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước, theo ước tính sơ bộ được Cơ quan Phân tích Kinh tế thuộc Bộ Thương mại Mỹ công bố hôm 25/7. Kết quả này gấp đôi tốc độ tăng trưởng 1,4% trong quý I. Ước tính tăng trưởng quý II của Bộ Thương mại Mỹ cao hơn nhiều so với dự báo tăng 2,0% của các nhà kinh tế với Reuters.
Tốc độ tăng trưởng trong nửa đầu năm 2024 của Mỹ ước đạt trung bình 2,1%, bằng một nửa tốc độ tăng 4,2% trong cùng kỳ năm trước. Con số này chỉ cao hơn một chút so với tốc độ tăng 1,8% mà các quan chức Fed coi là tốc độ tăng trưởng không lạm phát.
Chi tiêu của người tiêu dùng Mỹ, chiếm hơn 2/3 sản lượng kinh tế, đã tăng khoảng 2,3% trong quý II, sau khi tăng chậm lại ở mức 1,5% trong quý I. Sức chi tiêu quý II được thúc đẩy bởi người dân Mỹ đã tăng chi tiêu cho các dịch vụ như chăm sóc sức khỏe, nhà ở và tiện ích cũng như các hoạt động tham gia thành viên câu lạc bộ, các trung tâm thể thao, công viên, nhà hát và bảo tàng, và trò chơi sòng bạc.
Người Mỹ cũng tăng chi tiêu cho mặt hàng khác, bao gồm xe tải nhẹ mới, hàng hóa và phương tiện giải trí, đồ đạc nội thất và thiết bị gia dụng lâu bền cũng như các sản phẩm năng lượng.
Thực chất, chi tiêu của người tiêu dùng Mỹ được hỗ trợ một phần bởi mức tăng lương. Một báo cáo riêng từ Bộ Lao động cho thấy thị trường lao động nước này đang dần ổn định, với số đơn xin trợ cấp thất nghiệp ban đầu giảm 10.000 xuống còn 235.000 sau điều chỉnh theo mùa trong tuần kết thúc vào ngày 20/7.
Đầu tư kinh doanh tăng lên khi chi tiêu cho thiết bị, chủ yếu là máy bay, tăng vọt 11,6% trong quý II sau mức tăng khiêm tốn 1,6% trong quý I. Quý II cũng chứng kiến chi tiêu cho các sản phẩm sở hữu trí tuệ ở Mỹ tiếp tục tăng, mặc dù tốc độ chậm lại so với sức tăng mạnh mẽ trong quý I.
Tăng trưởng quý II cũng được thúc đẩy từ việc củng cố tồn kho cũng như tăng chi tiêu của chính phủ. Tuy nhiên, sự phục hồi của thị trường nhà ở đã giảm sút và là một lực cản nhỏ đối với nền kinh tế Mỹ. Thâm hụt thương mại tiếp tục mở rộng trong quý II, kéo giảm đóng góp vào tăng trưởng GDP.
Các doanh nghiệp Mỹ cũng tích lũy thêm hàng tồn kho trong quý II, với mức tăng 71,3 tỷ USD sau khi mức tăng 28,6 tỷ USD trong quý trước đó.
Hàng tồn kho Mỹ đã tăng đóng góp thêm 0,82 điểm phần trăm vào tăng trưởng GDP quý II sau khi là lực cản trong hai quý liên tiếp trước đó. Điều này đã bù đắp hơn 0,72 điểm phần trăm bị ảnh hưởng từ thâm hụt thương mại rộng hơn.
Như vậy, báo cáo sơ bộ của Bộ Thương mại Mỹ cho thấy đã xua tan lo ngại rằng tăng trưởng kinh tế Mỹ có nguy cơ kết thúc đột ngột, vốn đã được thúc đẩy bởi hiệu suất kém trong quý I và tháng 4.
Theo ước tính tăng trưởng quý II, nền kinh tế Mỹ tiếp tục hoạt động tốt hơn các đối tác toàn cầu của mình, mặc dù Cục Dự trữ Liên bang (Fed) đã tăng lãi suất mạnh mẽ trong hai năm 2022 và 2023 để ứng phó lạm phát.
"Tăng trưởng kinh tế vững chắc, không quá nóng và không quá lạnh", ông Christopher Rupkey, nhà kinh tế trưởng tại công ty phân tích tài chính FWDBONDS bình luận về GDP quý II của Mỹ. "Lạm phát có vẻ đang diễn ra theo chiều hướng của Fed và việc nới lỏng hạn chế tiền tệ với việc cắt giảm lãi suất có khả năng diễn ra vào tháng 9", ông Rupkey nói thêm.
Ngay cả khi không tính đến hàng tồn kho, thương mại và chi tiêu của chính phủ, tăng trưởng kinh tế quý II vẫn vững chắc nhờ nhu cầu trong nước tăng tới 2,6%. Doanh số bán hàng cuối cùng cho người mua ở khu vực tư nhân Mỹ tăng trưởng tương đương với kết quả quý I.
"Nền kinh tế Mỹ mạnh hơn nhiều so với những gì mọi người nhận ra và so với lo ngại tăng trưởng chậm lại của thị trường, và giờ họ nên thở phào nhẹ nhõm", ông Chris Zaccarelli, giám đốc đầu tư tại Independent Advisor Alliance, cho biết.
Tăng trưởng GDP quý II là tín hiệu tốt về sự gia tăng năng suất, điều này sẽ làm chậm tốc độ tăng chi phí lao động và sau đó là giảm áp lực giá cả. Chỉ số giá chi tiêu tiêu dùng cá nhân (PCE) lõi, không bao gồm giá thực phẩm và năng lượng, đã tăng 2,9% trong quý II sau khi tăng vọt ở mức 3,7% trong quý I.
Mặc dù mức tăng của chỉ số PCE lõi cao hơn một chút so với kỳ vọng của các nhà kinh tế về mức tăng 2,7%, nhưng xu hướng này đang chậm lại. Lạm phát lõi của Mỹ đã tăng 2,7% so với một năm trước, đây là tin đáng mừng cho các quan chức Fed trước thềm cuộc họp chính sách kéo dài hai ngày vào tuần tới.
Chỉ số PCE lõi là một trong những thước đo lạm phát mà Fed dùng để đối chiếu với mục tiêu 2%.
"Chúng tôi cho rằng việc điều chỉnh dữ liệu [hàng tháng] trước đây có thể giải thích một phần nguyên nhân của sự chênh lệch này (chênh lệch ước tính lạm phát - BTV)", ông Daniel Vernazza, chuyên gia kinh tế quốc tế trưởng tại UniCredit Bank, cho biết.
Lãi suất cho vay qua đêm của Fed hiện ở mức 5,25 - 5,50%, mức cao nhất trong khoảng 23 năm qua và là kết quả của 11 đợt tăng liên tiếp sau khi lạm phát đạt mức cao nhất kể từ đầu những năm 1980.
Sau thông tin sơ bộ về tăng trưởng kinh tế Mỹ quý II, thị trường tài chính đang kỳvọng Fed sẽ thực hiện ba đợt cắt giảm lãi suất trong năm nay, bắt đầu từ tháng 9.
Mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế vững chắc, triển vọng cho nửa cuối năm vẫn còn mơ hồ. Thị trường lao động đang chững lại, điều này sẽ tác động đến tăng trưởng tiền lương.
Mặc dù tiền lương tăng, thu nhập khả dụng của các hộ gia đình Mỹ sau khi điều chỉnh theo lạm phát và thuế vẫn tăng chậm hơn, với tốc độ tăng 1,0% trong quý II so với mức tăng 1,3% trong quý trước đó.
Điều đó có nghĩa là người tiêu dùng Mỹ chuyển hướng sang tiết kiệm ít hơn để dành cho chi tiêu trong quý II. Tỷ lệ tiết kiệm đã giảm xuống còn 3,5% trong quý II, từ mức 3,8% trong quý trước, và thấp hơn nhiều so với mức trung bình trước đại dịch Covid-19.
Tăng trưởng kinh tế là một trong những chỉ số kinh tế vĩ mô đặc biệt quan trọng và nó thường được đo bằng sự tăng trưởng tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời thời kỳ đổi mới luôn đạt mức tăng trưởng cao đứng thứ 2 Châu Á và trên thế giới (chỉ sau Trung Quốc), được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Tuy vậy về tốc độ cũng như chất lượng tăng trưởng còn nhiều điều phải làm sáng tỏ nếu như chúng ta so sánh tốc độ và chất lượng tăng trưởng của Việt Nam với các nước trong khu vực. Vấn đề đặt ra là với tốc độ và chất lượng tăng trưởng như vậy đã tương xứng với tiềm năng của Việt Nam hay chưa? So với các nước trong khu vực hiện nay chúng ta đang ở đâu ? Làm thế nào để tăng trưởng bền vững và nâng cao chất lượng tăng trưởng để Việt Nam thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước trong khu vực. Với bài viết này tác giả hy vọng sẽ góp phần lý giải các vấn đề nêu trên.
1. Lý luận về tăng trưởng kinh tế và so sánh quốc tế
Tăng trưởng kinh tế là một trong những chỉ số kinh tế vĩ mô đặc biệt quan trọng và nó thường được đo bằng sự tăng trưởng tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
Có rất nhiều yếu tố trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế cả về chất và lượng. Có thể liệt kê các yếu tố quan trọng sau đây ảnh hưởng đến chất lượng tăng trưởng như : Khối lượng và chất lượng lao động đã thực hiện; Số lượng và chất lượng lao động có thể sử dụng; Khối lượng và chất lượng công cụ lao động; Sự phối hợp của các nhân tố sản xuất trong một không gian cụ thể; Phương thức sản xuất, khoa học - công nghệ; Tổ chức; Tài nguyên tự nhiên; Cơ sở hạ tầng; Môi trường tự nhiên và môi trường sống v.v... Các yếu tố này tạo thành năng lực sản xuất kinh tế quốc dân hay tiềm năng sản xuất kinh tế quốc dân của một quốc gia.
Tăng trưởng kinh tế được tính bằng:
- Sự tăng trưởng của đại lượng tuyệt đối tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hoặc tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc
- Sự tăng lên của GNP hoặc GDP bình quân đầu người.
Về lý luận cần làm rõ và phân biệt khái niệm tăng trưởng về chất (hay chiều sâu) và tăng trưởng về lượng (hay về chiều rộng).
Nếu GNP bình quân đầu người luôn tăng thì quá trình tăng trưởng được xem là tăng trưởng về chất. Trường hợp giá trị tuyệt đối GNP tăng lên nhưng giá trị GNP bình quân đầu người không tăng, thậm chí giảm được xem là quá trình tăng trưởng về lượng.
Trong phân tích và so sánh kinh tế vĩ mô với các nước, tăng trưởng kinh tế được đo bằng GNP (GDP) bình quân đầu người là một chỉ số rất quan trọng và chịu ảnh hưởng của sự gia tăng dân số. Tốc độ gia tăng GDP bình quân đầu người sẽ bằng tốc độ tăng trưởng GDP trừ đi tốc độ gia tăng dân số.
Có một thực tế, mặc dù kinh tế tăng trưởng thậm chí là sự tăng trưởng về chất như một tín hiệu tích cực của sự phát triển nhưng không có nghĩa là mức sống của người dân đã được nâng lên một cách tương ứng. Bởi vì mức sống của người dân tăng lên ngoài sự tăng trưởng kinh tế về chất còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố khác như:
- Sự phân phối GDP giữa các nhóm kinh tế xã hội và các hộ gia đình, giữa các vùng và địa phương, giữa tiêu dùng cá nhân, tiêu dùng cộng đồng, đầu tư và sự tăng trưởng của ngoại thương.
- Chính sách thuế, tiền tệ, lạm phát.
Từ những điều trên cho thấy, khi nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế không thể tách rời mà cần phải đặt nó trong mối liên hệ và chế ước lẫn nhau với những đại lượng kinh tế khác nhau như:
- Tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thất nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Tăng trưởng kinh tế, khối lượng tiền trong lưu thông, hệ thống thuế và các cân bằng về kinh tế biểu hiện qua các thị trường: Thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường tiêu dùng, thị trường hàng hoá đầu tư, thị trường dịch vụ, thị trường tiền tệ.
- Tăng trưởng kinh tế với cán cân thanh toán và phân phối.
Mặt khác, khi nghiên cứu tăng trưởng, phải quan tâm tới chất lượng tăng trưởng, tăng trưởng kinh tế phải đảm bảo tính bền vững trong sự tương tác với các yếu tố xã hội và môi trường. Tăng trưởng kinh tế phải tạo ra nhiều việc làm, không tạo ra sự chênh lệch giầu nghèo bất hợp lý, không huỷ hoại hay làm ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, phải xem xét sự tác động hay sự đóng góp của 3 yếu tố đầu vào là vốn, lao động, năng suất các nhân tố tổng hợp TFP (Total Farotor Productivity)vào sự tăng trưởng; nếu đóng góp của TFP vào sự tăng trưởng càng cao thì chất lượng tăng trưởng càng tốt và ngược lại.
Chất lượng tăng trưởng ở các nền kinh tế phát triển người ta còn xem xét ở chất lượng tăng trưởng bậc cao. Tại một cuộc hội thảo của Hội đồng kinh tế xã hội của Liên hợp quốc TGĐ IMF Micheal Camdessus năm 1990 đã nêu định nghĩa chất lượng tăng trưởng kinh tế bậc cao như sau: "Tăng trưởng kinh tế chất lượng bậc cao là sự tăng trưởng động bền vững có sức đề kháng trước các cơn sốc kinh tế từ bên ngoài".
Như vậy, sự tăng trưởng phải đồng hành với sự ổn định về tài chính, tạo ra điều kiện bền vững cho sự phát triển của nền KTQD là sự đảm bảo tăng trưởng đầu tư, đặc biệt là đầu tư vào nguồn nhân lực, đảm bảo các khía cạnh kinh tế - xã hội, môi trường của sự phát triển.
Việc so sánh trình độ phát triển kinh tế của nước này với nước khác là việc không phải dễ vì khó có một chỉ tiêu tổng hợp nào có thể biểu diễn tổng quát trình độ phát triển của một nước. Tuy nhiên khảo sát một nhóm các chỉ tiêu cơ bản thì tiêu chí thường được đem ra so sánh là GNP (GDP) bình quân đầu người được xem là quan trọng nhất. Tất nhiên để chính xác hơn phải tính GNP (GDP) bình quân đầu người theo tỉ giá so sánh ngang bằng sức mua PPP (Purchasing Power Parity).
Tuy nhiên ở đây còn có 2 vấn đề cần phải đề cập: Thứ nhất là vấn đề phân phối. Nếu việc phân phối thu nhập quá bất bình đẳng thì ý nghĩa của việc tăng GNP (GDP) bình quân đầu người sẽ giảm đi. Thứ 2 là liên quan đến môi sinh, môi trường, điều kiện làm việc.
Cho nên hiện nay ngoài thu nhập người ta còn tính đến chỉ số phát triển nguồn nhân lực HDI (Human Development Index).
So với Thái Lan năm 2002 GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt 21,4 nhưng đến năm 2003 con số đó đã tụt xuống 20,99. Nếu so với cả khối Asean thì GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2002 bằng 38,0 nhưng đến năm 2003 đã tụt xuống 37,96. Như vậy, mặc dù kinh tế Việt Nam có tăng trưởng nhưng so với các nước trong khu vực đã có tín hiệu tụt hậu.
Theo Tác giả Đào Ngọc Lâm (TCTK Báo Thanh niên 29/3/2006): Với tính toán sơ bộ GDP bình quân đầu người và tốc độ tăng trưởng như hiện nay để GDP bình quân đầu người của Việt Nam bằng mức bây giờ của các nước sau đây thì Việt Nam cần một số năm như sau: Indonesia: 5 năm; Philippine: 8 năm; Thái Lan: 20 năm; Malaysia: 24 năm; Brunei: 38 năm; Singapore: 40 năm. Tất nhiên tác giả giả thiết là các nước này đứng yên( nghĩa là Gy =Gn), song thực tế sau khủng hoảng 1997-1998 các nước này cũng có mức tăng khá.
2. Những vấn đề thực tiễn về so sánh kinh tế Việt Nam với các nước trong khu vực đầu thế kỷ XXI
Trên Báo Thanh niên số 86 ngày 27/3/2006 nhà sử học Dương Trung Quốc có bài "Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ" và sau đó được Báo Thanh Niên làm đầu đề diễn đàn để bạn đọc tham gia phân tích, tranh luận nhằm nhận chân giá trị của dân tộc và kiến nghị các giải pháp chấn hưng dân khí, góp phần thúc đẩy tiến trình phát triển của đất nước. Qua diễn đàn có thể thấy nhiều ý kiến đa dạng và trái chiều nhau, một số thì lạc quan, một số thì quá bi quan về tiến trình phát triển của đất nước. Dưới góc độ khoa học hãy phân tích một cách khách quan đầy đủ và chính xác để nhận dạng thực trạng kinh tế của Việt Nam so với các nước trong khu vực, trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam hiện đang nằm ở đâu? Muốn vậy hãy so sánh Việt Nam với Thái Lan, Trung Quốc và Ấn Độ.
Chúng ta so sánh với Thái Lan vì ở trong cùng một khối Asean, có dân số gần tương đương nhau và nhất là vào thập niên 50 hai nước có cùng trình độ phát triển. Theo tài liệu của ECAFE tiền thân của ESCAP thuộc UN, vào năm 1954 GNP bình quân đầu người của Việt Nam là 117 USD trong khi đó Thái Lan vào năm 1952 là 108 USD (Indonexia là 88USD; Hàn Quốc là 55 USD vào năm 1955.)
Chọn Trung Quốc và Ấn Độ làm đối tượng so sánh với Việt Nam bởi vì tuy là 2 nước khổng lồ nhưng có thể chế chính trị, kinh tế, văn hoá tương đồng với Việt Nam và cũng đều đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu mặc dù không phân tích cụ thể như Thái Lan. Đặc biệt Trung Quốc lại cũng chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường như Việt Nam.
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng của Việt Nam, Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ và ASEAN.
Nguồn: IMF (9/2204) Statistical Appendix, World Economic outlook.
Và kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế 2004 - 2005 NXB Chính trị QG
Bảng 2: GDP bình quân đầu người của một số nước (USD) 1996 2005
Nguồn: ASEAN Finance & Macroeconomic Surveillance.Unit (FMSU) Database và tác giả tự tính toán.
Không một ai có thể phủ nhận được những thành tựu nổi bật về kinh tế xã hội trong 20 năm đổi mới tại Việt Nam. Đó là có thời gian tăng trưởng liên tục, qui mô GDP đã tăng gấp 3,7 lần năm 1985, tốc độ tăng trưởng bình quân trong đổi mới đạt bình quân 6,8 cao gần gấp hai lần trước đổi mới 1977-1985 (3,8). Từ năm 1991 sản xuất không những đảm bảo tiêu dùng ngày càng cao mà còn có tích luỹ. Uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường Quốc tế đã được nâng lên một tầm cao mới. Tuy vậy qua so sánh tăng trưởng kinh tế và sự phát triển kinh tế với một số nước trong khu vực chúng ta rút ra được một số nhận xét sau đây:
a. Xuất phát điểm của kinh tế Việt Nam thấp
Tăng trưởng GDP trong thời gian qua rất đáng tự hào kể cả về thời gian tăng trưởng và tốc độ tăng trưởng. Thời gian tăng trưởng cho đến nay đã đạt 25 năm liên tục vượt kỷ lục của Hàn Quốc 23 năm tính đến năm 1997 (1997/1998 xảy ra khủng hoảng toàn châu Á và kinh tế Hàn Quốc bị sụt giảm) và chỉ thua kỷ lục của Trung Quốc đang nắm giữ là 27 năm.
Theo số liệu của TCTK: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong 20 năm đổi mới như sau:
Thời kỳ :1986-1990 : Đạt xấp xỉ : 4,5 ; 1991-1995 : Đạt 8,2;
1996- 2000: Đạt :7,0 ; 2001- 2005: Đạt :7,5
Như vậy tốc độ tăng bình quân của 20 năm đổi mới đạt 6,8 và thời kỳ 1991 - 2005 đạt 7,5.
Bảng 3: Chỉ số xếp hạng năng lực cạnh tranh tăng trưởng năm 2004
Chỉ số xếp hạng môi trường kinh tế vĩ mô
Chỉ số về mức độ chi tiết lãng phí của Chính phủ
Nguồn: Báo Tuổi trẻ ngày 21/10/2004 và ngày 28/10/2004
Như vậy kể cả về tốc độ và thời gian kinh tế Việt Nam tăng trưởng chỉ sau Trung Quốc và qua Bảng 1 chúng ta thấy tốc độ tăng trưởng của Việt Nam cao hơn so với Ấn Độ. Chính vì thế trong thời gian qua có nhiều đánh giá quá lạc quan là Việt Nam sắp "hoá rồng, hóa hổ". Nhưng theo Bảng 2 xét về quy mô GDP bình quân đầu người của Việt Nam là quá thấp chỉ nhỉnh hơn 1/3 bình quân chung của cả khối ASEAN và gần bằng 1/5 của Thái Lan; nếu so với Singapore thì họ gấp chúng ta 44 lần và vì vậy ở trên Báo Thanh niên ngày30/3/2006 có người đánh giá quá bi quan rằng phải sau 197 năm nữa Việt Nam mới bằng Singapore như bây giờ . Năm 2005 GDP bình quân đầu người Việt Nam đạt 637 USD nếu theo chuẩn nghèo mới của Liên hợp quốc (2USD/ngày) thì mới đạt 87 chuẩn nghèo quốc tế và đứng thứ 8/11 nước trong khu vực, nghĩa là chỉ hơn Lào, Campuchia và Mianma và thứ 39/52 nước châu Á và thứ 142/200 nước trên thế giới. Nếu tính theo PPP cũng mới đạt 2739USD và đạt các vị trí tương ứng là 7/11; 36/52 và 130/200 và mới đạt 60 mức bình quân khu vực.
Bảng 4 : Tỉ trọng đóng góp của 3 yếu tố đầu vào đối với tăng trưởng kinh tế của một số nước châu Á 1960 - 1994 ( năm)
Nguồn: Crafts - 1999 dựa trên kết quả của nhiều nghiên cứu.
Bảng 5: Tỷ trọng đóng góp của 3 yếu tố đầu vào đối với tăng trưởng GDP của Việt Nam () 1992 - 2004
Nguồn: Tổng Cục thống kê (TCTK)
1. Lê Bộ Lĩnh : Kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế 2004 - 2005. NXB Chính trị Quốc gia . Hà Nội 2005.
2. Nguyen Dinh Hoa: Model ekonomického rozvoja azíských drakov. MIKACONZULT Bratislava - SLOVAKIA 2001
3. Mokrý . V Tuharska E : Komparácia makroekonomických systémov Vybrané problémy EKONOM Bratislava. Slovakia 1998.
4. Thời báo Kinh tế Việt Nam : Kinh tế 2003 2004;2004-2005 . Việt nam & Thế giới
5. Economic and Social Survey 0f Asia and PACIFIC 2005 SSCAD UN New York 2005
6. World Development Indicators .The WB 2005
8. Finance and Development March 1989
9. Báo Tuổi trẻ ngày 21/10 và 28/10/2004.
10. Báo Thanh niên 28/3 -> 30/3/2006.
11. ADB (2004) ASIA Development outlook 2004
13. Số liệu của Tổng cục Thống kê.